Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

Ca sĩ Tuấn Ngọc: Càng đòi hỏi ít thì càng dễ vui (*)

Ảnh: Đại Ngô
Như con thoi, khi về Mỹ, lúc trở lại Việt Nam để hát, nhưng ca sĩ Tuấn Ngọc nhận lời gặp Đặc san Văn hóa Phật giáo Việt Nam để trò chuyện về những điều mà như anh nói là chưa từng chia sẻ với bất kỳ tờ báo, tạp chí nào.

Càng lớn thì càng để ý tới tâm linh
+ Thưa anh Tuấn Ngọc, dạo này trông anh có vẻ hơi hốc hác thì phải? Đó là do ảnh hưởng của việc mỗi tháng anh  nhịn ăn định kỳ một ngày?
-Không, lâu lâu tôi mới nhịn ăn. Vài năm nay tôi đã áp dụng chế độ này. Bên Mỹ đây là chuyện bình thường, nhiều người họ nhịn ăn 1 – 2 ngày, chỉ uống nước và ăn trái cây.
+ Anh có thử ăn chay chưa?
 -Vâng, tôi thích lắm, nhưng đi hát, phải di chuyển nhiều nơi như hiện nay thì không tiện, nên cũng chưa ăn thường xuyên được.
+ Anh vào nghề sớm từ năm 4 tuổi, năm 13 tuổi thì chính thức bước vào làng giải trí, rồi thành công nhanh chóng và trong suốt chặng đường ca hát của mình đều hanh thông, nếu nói là anh rất may mắn thì có đúng không?
-Có thể nói rằng nhiều nghệ sĩ thành công lúc trẻ, còn tôi càng lớn thì càng thành công hơn. Với nghề ca hát thì càng trẻ tuổi càng tốt, nhưng để theo nghề lâu dài thì có lẽ cũng không nhiều người đạt được.
+ Hiện nay, có không ít nghệ sĩ, kể cả nghệ sĩ trẻ thường chia sẻ về những lời dạy của những bậc hiền triết như đức Phật, đức Chúa…Trong nhiều bài trả lời phỏng vấn gần đây của mình, anh hay đề cập tới những lời dạy của đức Phật – điều này quả thực khiến tôi ngạc nhiên và tò mò.
-Có những lời dạy của các bậc hiền triết ảnh hưởng tới cuộc đời riêng tư của mỗi người, nhưng ăn thua vẫn là nhân sinh quan của mình. Mình nhìn sự vật hiện tượng như thế nào, suy nghĩ như thế nào thì nhìn cuộc sống sẽ như thế. Càng lớn thì tôi càng để ý tới tâm linh.
+ Người ta thường để ý tới tâm linh khi lớn tuổi, đã trải nghiệm những suy tư trong cuộc đời, hay qua những đổ vỡ. Anh để tâm vì có biến chuyển, biến cố gì trong chính cuộc sống cá nhân của anh chăng?
-Không phải biến chuyển, biến cố gì, mà là cái duyên. Khi tôi đọc một cuốn sách hay về vấn đề tâm linh thì thường làm thay đổi suy nghĩ của mình. Tôi rất thích đọc sách, nhất là về mảng tâm linh, Phật giáo, triết học.
+ Nhưng người đời cũng thường nghĩ là người thành công trong sự nghiệp và cuộc sống gia đình được biết tới là đầy hạnh phúc mà lại hay nói về tâm linh thì có vẻ hơi…trái khoáy?
-Thực sự tôi không thấy trái. Hiện nay, mọi người tới đầy nhà thờ, chùa chiền tổ chức các chương trình văn nghệ và tôi thấy ngay cả lãnh đạo tôn giáo cũng để ý tới âm nhạc, nhiều người còn đặt nhạc nữa. Tôi là nghệ sĩ mà để ý tới vấn đề tâm linh thì cũng là chuyện bình thường, nhất là thời đại ngày nay có nhiều biến đổi lớn, khi người ta quan tâm tới vật chất nhiều hơn, sống ồn ào, gấp gáp hơn.
+ Đó có phải là phần lặng của những người làm nghệ thuật mà thường được quan niệm là phù hoa?
-Thực sự thì nghệ sĩ rất cần những khoảng lặng ấy.
+Vì những lúc họ trên sân khấu thì luôn sống trong hào quang của đèn hoa, của lời tung hô của người hâm mộ, của ồn ào chăng?
-Lúc đó mình sống cho xã hội, thì rất cần những lúc lắng lại, để sống cho mình chứ.
+ Anh để tâm tới điều này lâu chưa?
-Từ lâu rồi, vì từ nhỏ tôi đã thích sống một mình. Lúc đó, tôi nghĩ mình hơi…lập dị, nhưng giờ càng lớn thì càng thích như vậy.
+ Nhiều nghệ sĩ khi nghiêng về tâm linh thì hay hát ca khúc về tâm linh, như nhạc Phật giáo hay Thiên chúa giáo như một cách truyền tải những vấn đề ấy tới rộng rãi hơn với mọi người?Đó có phải là một cách chia sẻ tốt?
-Tôi lại không quan niệm như thế. Với tôi đi hát là hát nhạc tình, còn đạo là đạo, đời là đời.
+ Nhưng việc nghệ sĩ thường tham gia chương trình thiện nguyện là cần thiết chứ?
-Tôi hoàn toàn tán thành. Chương trình đúng đắn nghiêm túc tôi cũng thích tham gia, giống như trong cuộc đời mình giúp nhau, nương tựa nhau mà sống. Có chương trình từ thiện mời tôi tham gia, tôi sẵn sàng hoặc chương trình trợ giúp những nghệ sĩ lớn tuổi hết thời thì tôi cũng sẵn lòng. Kể cả những chương trình giúp trẻ khuyết tật, trẻ mồ côi tôi cũng rất thích tham gia nhưng tới nay chưa thấy ai ngỏ lời.
+ Về đời sống tâm linh anh có chia sẻ nhiều với đồng nghiệp không?
-Quả thực là không có nhiều cơ hội vì người nào cũng bận rộn. Bên Mỹ thì tôi biết có một hội, nhóm ca sĩ hay tham gia những hoạt động tâm linh. Mình theo tâm linh nhưng có nhiều đường lối, tôi vẫn thích một mình hơn.
+ Nhưng cũng có những người từ nhỏ, khi còn trẻ không để ý tới tâm linh, tôn giáo, khi lớn tuổi mới thay đổi?
-Điều này cũng đúng một phần! Phần lớn người Việt Nam theo đạo ông bà, thờ tổ tiên, và cũng thờ Phật, nhưng không để ý sâu sắc tới phần triết lý. Gia đình tôi cũng thế. Nhưng với tôi, thì càng lớn tuổi càng để ý tới tâm linh là do bản thân mình, chứ tôi không nghĩ là từ ảnh hưởng nhiều của gia đình. Đó là do cái duyên, ăn thua là bản chất của mình hợp với lối sống ấy.

Chấp nhận cuộc đời như nó vốn thế thì hết buồn
+ Anh cũng nhiều lần…thú nhận là mình vốn có tính bông đùa mà lại đi hát nhạc buồn, nay lại hay nói chuyện tâm linh, điều này có vẻ như có nhiều mâu thuẫn trong một con người?
-(Cười) Âm nhạc Việt Nam 10 bài thì 9 bài buồn rồi. Mà bài hay thì thường buồn, mình hát nhạc buồn nhưng không nghĩ con người mình nhất định phải buồn. Tôi mong muốn đem lại niềm vui cho khán giả. Mang cho nhau nụ cười, giúp khán giả vui vẻ là tôi cũng vui. Nhiều khi tôi hát thay đổi nhịp điệu thì đỡ buồn. Hát cũng vốn là giải trí, mà giải trí thì phải làm cho người ta vui chứ! (cười).
Còn mình biết cuộc đời bản chất là buồn, buồn nhiều hơn vui, nên không đòi hỏi nhiều. Mình vẫn vui, vẫn chấp nhận  cuộc đời như vậy, như nó vốn thế thì hết buồn.
+ Nhưng niềm vui thường không hoặc khó giúp người ta chiêm nghiệm lối sống mà thực ra chính là nỗi buồn. Tôi đã nghe nhiều người nói như vậy!
-Đúng vậy! Nhưng cuộc đời có vui có buồn.  Cho nên, khó có thể nói mình chiêm nghiệm đời sống chỉ từ nỗi buồn. Mình thấy hai người yêu nhau, thấy hạnh phúc cũng đẹp, là có thật đấy chứ và đương nhiên ai cũng mong cuộc đời như vậy. Nếu biết suy nghĩ thì từ cả nỗi buồn hay niềm vui mình đều có thể suy nghĩ được, chiêm nghiệm được. Ở tuổi này tôi dễ vui hơn, vì không đòi hỏi gì. Càng đòi hỏi ít thì càng dễ vui. Nếu nói rằng cứ nhìn cuộc sống hiện nay mà phải suy nghĩ thì suy nghĩ ghê lắm, nhất là về Việt Nam, nhìn con người thấy thương lắm. Cứ ra đường là mình phải suy nghĩ rồi, phải động lòng rồi, không tránh được. Nhưng với bản thân mình thì càng đòi hỏi ít thì càng hạnh phúc. Tôi cảm ơn cuộc đời, mình được như thế này là vui rồi.
+ Vậy bây giờ anh cũng đã lớn tuổi và vẫn đang “Trên đỉnh mùa xuân bình yên” anh nhìn những chặng đường đời của mình đã qua thế nào?
-Tôi thấy rằng sự hiện hữu của mình trong cuộc đời này không đến nỗi vô ích cho lắm! Thành công thì tất nhiên nhờ sự học hỏi của mình, nhưng nhờ khán giả rất nhiều, và yếu tố may mắn cũng nhiều chứ. Tôi may mắn được khán giả yêu mến, còn hay hay dở thì cũng chỉ là vấn đề tương đối mà thôi. Tôi quen nghe lời khen của người ta nhiều nhưng không phải vì vậy mà nghĩ mình hay, tài giỏi mà là thấy mình may mắn, vì càng học hỏi, càng hát thì càng thấy mình dốt,thật đấy! Mình được yêu mến thì càng phải cố gắng hoài, ngày nào còn đi hát thì còn phải cố gắng. Tôi vẫn phải học hát hàng ngày, không chỉ luyện thanh mà phải theo dõi kỹ thuật hát trên thế giới, chẳng hạn cách ngân ngày nay đâu có giống thời gian đầu tôi vào nghề. Mình lỗi thời là xong ngay.
+ Cha anh – nghệ sĩ Lữ Liên, vốn là thành viên trong ban nhạc hài hước ATV và trong nhiều lần buổi diễn khi tuổi đã cao ông cụ vẫn pha trò rất duyên, điều này thì có lẽ anh em anh trong gia đình đều chịu ảnh hưởng?
-Cả nhà tôi đều thích nói chuyện tếu kiểu Bắc Kỳ, nhưng hát nhạc buồn thì mình phải diễn tả nỗi buồn, chứ chẳng lẽ lại cười. Hiện nay tôi lại muốn sống vui vẻ. Cuộc đời buồn dễ nhưng vui thì khó, nhất là trong thế giới ngày nay, con người càng ngày càng bon chen. Tôi đọc tin tức hàng ngày mà thấy chóng mặt. Tôi vốn không thích chính trị này kia, nhưng phải biết mình, biết cuộc đời như thế nào, còn không thì vào rừng mà ở. (cười).
+ Vậy để bớt buồn, anh có định sẽ hát những bài vui hơn?
- Mình có thể hát vui, làm điều gì đó cho cuộc đời vui hơn, mọi người vui hơn nhưng vẫn phải là mình, sống theo tuổi hiện nay của mình (cười). Tôi đã ngoài 60 rồi thì không thể lên nhảy nhót như ca sĩ trẻ kiểu Đàm Vĩnh Hưng được. Với tôi nghệ sĩ phải là chính mình, dù làm gì thì làm cũng không ngược lại với con người mình, nếu không đó chính là mầm mống thất bại
+ Nhưng làm nghệ thuật, vốn liên quan tới nhiều người, nhất là khán giả thì nhiều khi mình phải chiều lòng nhà tổ chức, khán giả, phải ép bản thân không còn là mình.
-Mình coi trọng nghệ thuật nhưng vẫn phải là mình, chú ý từ cách mặc quần áo, chọn bài hát. May mắn là tôi đi theo những gì tôi nghĩ  và được khán giả ủng hộ. Được khán giả yêu mến thì do mình may mắn mà thôi, chứ tôi không nghĩ mình là cái gì cả.

Luôn mong muốn mình sống làm sao có đạo đức
+ Âm nhạc với anh là lớn nhất trong cuộc đời, ngoài âm nhạc còn gì khiến anh chú ý nữa?
-Ngoài âm nhạc thì tôi luôn nghĩ mình sống làm sao có đạo đức, cho tâm hồn mình có đạo đức. Âm nhạc chiếm gần như toàn bộ thời gian của tôi, nhưng không có nghĩa là nghệ sĩ thì nên sống phóng túng, mà nghệ sĩ cũng là người làm nghệ thuật, vì thế đạo đức càng phải đặt lên trên hết. Tuy nhiên, nói thì không dễ vì cuộc đời có nhiều cám dỗ.  (Cười).
+ Nhưng nghệ sĩ vốn hay được nhìn nhận là sống phóng túng, bay bổng thì mới là chất men để say nghề, để thăng hoa?
-Tôi không nghĩ thế! Mỗi người một nghề nhưng đạo đức phải đặt lên trên hết.
+Điều đó làm anh cân bằng được khi mới ra ngoài sân khấu sáng choang, mà vài phút sau đã lùi vào phía hậu trường tối mờ?
-Đúng rồi! Vì nếu mình không biết suy nghĩ thì khi người ta khen dễ khiến mình mờ mắt. Thường khi nghe lời chê ai cũng buồn thảm. Nhưng mình phải biết mình là ai, đang ở đâu.
+ Bây giờ anh trung tuổi thì dễ suy nghĩ về điều này hơn là lúc tuổi trẻ chăng?
-Chắc chắn chứ! Người 50 – 60 tuổi sẽ suy nghĩ chín chắn hơn người 15 – 20 tuổi. Mình phải sống theo tuổi của mình chứ có nhiều nghệ sĩ lớn tuổi mà cách sống như người trẻ. Tâm hồn mình trẻ trung, nhưng mình không thể sống như người trẻ được, đua làm sao lại được với họ, đua quá mình lại thành quá đà. Càng sống thì phải biết chiêm nghiệm, suy nghĩ hơn, đó là cái lợi duy nhất của người lớn tuổi, ngoài ra không có cái lợi gì. (cười). Có một doanh nhân nổi tiếng người Mỹ từng nói: tuổi trẻ là tuổi vàng nhưng ít người chịu để ý, mà cứ ham trau dồi sức khỏe, bề ngoài, nhưng cái đó ngày càng mất đi mà bên trong mình có thể làm tốt hơn thì lại ít chú ý.
Đó là điều mà tôi rất muốn đạt được, để mỗi ngày một tốt hơn, ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua, chính là sự tiến triển về tâm hồn, đời sống tâm linh, tinh thần của phần NGƯỜi trong con người. Con người thì càng lớn tuổi thì càng tệ, càng xuống dốc về bề ngoài nhưng bên trong của mình phải đẹp hơn. Nay nhìn ra xã hội thì tôi thấy người ta càng để ý tâm linh hơn đấy chứ.

Giá trị của mình phụ thuộc vào chính bản thân
+ Anh có hay đi chùa không?
-Tôi ít lắm, vì cũng không có thời gian nhiều, mà tôi chú tâm đọc sách dạy làm người và chiêm nghiệm bản thân, nhìn vào cuộc sống, ngay trong âm nhạc cũng thế.
+ Nhưng trong đạo Phật nói rằng, nếu chỉ đọc, chiêm nghiệm thì mới là học giả, còn hành giả thì phải trải nghiệm?
-Đúng vậy, vì nói thì dễ, làm thì mới khó, nhưng ít nhất thì có suy nghĩ hướng thiện cũng giúp mình tránh được những cám dỗ, tránh những điều không tốt. Có đọc sách vẫn hơn! Còn nếu cơ hội hành được thì quá tốt.
+ Và sự cám dỗ ấy thì mình luôn phải đối mặt trên cả chặng đường dài đúng không anh?
-Đúng vậy! Người nào trên đời cũng có lúc lầm lỗi nhưng vấn đề là có học được từ lỗi lầm ấy hay mỗi ngày lại chồng thêm một lỗi khác nhau? Người Mỹ nói rằng: người điên là người không bao giờ học được từ lỗi lầm của mình. Mình cũng là con người, có khả năng gây ra những lỗi lầm nhưng phải chừa bỏ, chứ chẳng lẽ cứ phạm lỗi hoài? Tôi có nguyên tắc sống của mình, và nhất là ở tuổi này thì tôi nghĩ khó có thể sa ngã.
+ Nhưng nghệ sĩ thì thường có cơ hội tiếp xúc với nhiều cám dỗ về thanh, sắc, danh vọng và nhất là với ca sĩ nổi tiếng như anh thì có nhiều sắc đẹp vây quanh cũng là bình thường?
-(Cười) Là nghệ sĩ thì ai chẳng có người hâm mộ! Tuy nhiên, không phải là lời khen, bóng hồng vây quanh khiến giá trị của mình nâng lên, còn không ai chú ý tới thì giá trị của mình xuống thấp mà giá trị của mình phụ thuộc vào chính mình. Điều đó cũng không có nghĩa là được nhiều người đàn bà theo đuổi thì mình đẹp trai, duyên dáng và ngược lại thì mình bị gì gì đó. (Cười).
 Người khó tính nhất, người hay chỉ trích tôi chính là tôi. Ngay cả khi đi hát một đêm ai cũng khen nhưng chính mình biết mình mắc lỗi thì buồn chứ. Vì người hâm mộ có khuynh hướng dễ dàng tha thứ cho mình, nhưng mình tha thứ cho bản thân mới khó, nhất là khi được người ta thương mến mà cảm giác mình không làm tròn trách nhiệm.
+ Tôi để ý là dù khi hát nhạc buồn thì anh cũng thường giao lưu rất tếu và nhộn?
-Vì tôi quan niệm không phải ca hát chỉ là nghề nghiệp mà là cả cách chia sẻ. Tôi thích người ta nghe mình hát chứ đâu phải để mình dạy đời, và tôi thích giao lưu.
+ “Chớ buồn gì trong giây phút chia lìa…Chớ lịm người nghe anh sắp qua đời. Anh chỉ còn bên em chút thôi” - cách đây không lâu, anh hát Nắng chiều rực rỡ trong đám tang của ông nhạc anh – nhạc sĩ Phạm Duy, trước và sau khi hát anh cũng đều nói chuyện hài hước. Đó có phải là một cách làm nguôi ngoai nỗi buồn của chính mình và của người khác?
-Nắng chiều rực rỡ là ý nghĩ của người đàn ông sắp qua đời, lời và nhạc đều của ông cụ viết giai đoạn sau này, lại ít người hát, nên tôi nghĩ mình hát thì sẽ có ý nghĩa hơn.
+ Năm qua gia đình anh đón nhiều chuyện chấn động, sau sự ra đi của ca sĩ Duy Quang – anh vợ, rồi tới cha anh – NS Lữ Liên, kế tiếp là ông nhạc – nhạc sĩ Phạm Duy. Sự cân bằng nhiều khi nói thì rất dễ đúng không anh?
-Mình biết là vậy nhưng mất mát quá lớn trong năm Nhâm Nhìn, năm khủng hoảng của gia đình chúng tôi. Tôi nghĩ đi nghĩ lại cả thời gian đó. Bố tôi và nhạc sĩ Phạm Duy lớn tuổi rồi, có ra đi thì cũng là chuyện bình thường, còn anh Duy Quang thỉ ra đi bất ngờ, sốc nhất. Mất mát thì buồn nhưng tóm lại mình vẫn phải chấp nhận, vì cuộc đời là thế, nếu nghĩ vậy thì mình sẽ dễ chấp nhận được. Tất nhiên, mình vẫn phải nhìn về phía trước mà đi tới, vì cuộc sống đâu có ngừng nghỉ và để mình sống có nhiều trách nhiệm hơn. Khủng hoảng thì vẫn phải vượt qua. Con người biết suy nghĩ hơn thú vật khác thì mình không được buông xuôi tay trước nghịch cảnh, mình phải thắng nghịch cảnh, thắng chính mình.

Buồn vì mất mát nhưng vẫn phải chấp nhận vì cuộc đời là như thế
+ Gần đây, trên báo chí, anh khuyên con cái là nếu lập gia đình thì cũng không nên có con? Điều này dễ khiến nhiều người sốc!
-Sốc chứ! Tôi rất thương con, thương lắm, nhưng tôi cũng rất lo cho nó chứ. Vì thương con nên không muốn nó có con. Nếu thêm một gia đình nghèo, con cái đầy đàn mà nuôi không hết thì có nên có con không? Sinh con ra là phải có trách nhiệm. Nếu đã sinh con thì mình phải sẵn sằng từ vật chất tới tinh thần. Hồi trẻ mình cứ nghĩ lấy chồng, lấy vợ, rồi có con là chuyện tự nhiên, ai cũng thế mà chẳng lo lắng về vật chất, tinh thần cho con cái tươm tất, khiến cả con cái lẫn mình đều khổ, nên tôi nhìn việc có con là khổ. Hình như có tôn giáo nào đó khi một đứa trẻ chào đời là người ta khóc, và khi chết là họ vui mừng.
+ Có phải anh theo quan niệm cuộc sống này là cõi tạm?
-Đúng là cõi tạm, ai cũng thế thôi. Sinh con có khi lại sinh ra cái khổ mới, kéo mình níu chặt, trói buộc vào cuộc đời. Tôi rất ngưỡng mộ đức Phật! Với tôi thì không có ai vĩ đại hơn đức Phật.
+ Vì có con thì hình như phần lớn người Việt Nam vẫn lo lắng từ bé tới khi nhắm mắt xuôi tay?
-Sống ở Mỹ nhưng tôi không theo như quan niệm của xã hội Mỹ chỉ lo cho con cái tới năm 18 tuổi là được coi là hết trách nhiệm mà đã lo là lo suốt đời khi có con. Có con thì mình phải có trách nhiệm lớn lao với con cái, với bản thân mình. Tôi sống theo duy tâm của tôi.
+ Đó có phải do anh ảnh hưởng nếp nghĩ của người Bắc xưa được bảo lưu trong gia đình?
-Đúng vậy! Vì người Mỹ có những cái hay mà cũng có những cái, người Á Đông cũng vậy. Các gì hay, đẹp, nhân bản thì mình vẫn muốn giữ, như chẳng hạn gia đình tôi khi ăn cơm vẫn phải mời nhau. Mời mọc là một truyền thống rất hay của người Việt Nam. Mỹ phát triển nhất thế giới vì họ tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tự do nhưng cũng vì tự do quá mà người ta sẽ đi xuống. Cái gì tự do quá cũng không tốt, mà mọi thứ nên cân bằng.
+ Cảm ơn anh./.

Giáo sư Trần Văn Khê: Người Việt Nam phải biết thương nghệ thuật của cha ông

Bài: Trần Thiện Tùng
Ảnh: Nguyễn Thị Thúy (Hội quán Các bà mẹ)
Bài đăng trên báo Nhân Dân cuối tháng 11 (tất nhiên có cắt đi một số đoạn do dung lượng trang báo có hạn)

Khi tôi tới tư gia – căn biệt thự ở đường Huỳnh Đình Hai, quận Bình Thạnh, TPHCM nơi mà chính quyền thành phố dành cho ông khi giáo sư chính thức trở về Việt Nam sinh sống, tiếp tục cống hiến cho đất nước bằng việc tổ chức các buổi nói chuyện, biểu diễn âm nhạc dân tộc tại tư gia và nhiều nơi trên toàn quốc - thì vị giáo sư nổi tiếng đã ngoài 90 tuổi, tuy ngồi xe lăn nhưng vẫn miệt mài vào mạng đọc tin tức, gửi email. Hỏi ông về vốn liếng âm nhạc dân tộc, ông bảo: tôi đã nói rất nhiều, viết cũng rất nhiều nhưng dường như không ai quan tâm, trong khi âm nhạc dân tộc đang chìm lần vào quên lãng, mà tôi chỉ là một con chim én, một con én thì đâu có làm nên mùa xuân.
+ Vậy đó có phải là điều đáng buồn cho nền âm nhạc truyền thống Việt Nam hiện nay không thưa giáo sư?
- Đáng sợ, đáng lo chứ không chỉ đáng buồn! Tình hình đã như vậy rồi chứ không phải đơn giản! Thanh niên xa rời âm nhạc dân tộc, vì nhiều lẽ:
Do điều kiện lịch sử, nước Việt Nam bị Pháp đô hộ 100 năm, Pháp không cấm âm nhạc dân tộc nhưng đẩy lùi âm nhạc Việt Nam vào bóng tối, làm người dân nước mình quên âm nhạc dân tộc, học âm nhạc phương Tây.
 Do thời cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ mọi lực lượng đổ xô đánh giặc giữ nước, ít có người lo văn hóa, gần như bị đứt đoạn văn hóa dân tộc.
Do dân mình hãnh hiện học âm nhạc bác học phương Tây, cầm cây violon thì khoe, còn học đàn cò thì giấu diếm, đó là tâm lý mặc cảm của người Việt Nam coi cái gì của mình cũng thua người ta.
Sau khi thống nhất thì nặng về vấn đề kinh tế, trước hết chánh phủ phải lo cơm ăn áo mặc nên âm nhạc bị xao lãng, không ai muốn nghe, người học cổ nhạc bị ruồng rẻ. Nhạc mới thậm chí bậy bạ cũng được trả cả triệu đồng, còn nhạc dân tộc thì vài chục ngàn đồng. Không ai muốn học nhạc dân tộc để rồi bị nghèo.
Dân chúng mải lo làm ăn không giáo dục con cháu về thẩm mỹ âm nhạc dân tộc, cha mẹ cũng quên lãng, trong khi ngôi sao Đại Hàn đến thì đổ xô đi đón rần rần, còn những CLB âm nhạc dân tộc làm chương trình rất công phu như CLB Tiếng Hát Quê Hương (TPHCM) phát 600 giấy mời nhưng chỉ có chừng 200 người tới.
Các đài truyền hình, phát thanh không phát âm nhạc dân tộc vào giờ thuận tiện cho dân chúng xem, các phương tiện truyền thông đại chúng góp phần làm hư dân chúng.
Chính quyền không chăm lo đời sống cho nghệ nhân âm nhạc dân tộc, như vừa qua chúng ta thấy nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu chết trong nghèo đói; trong khi đó những đất nước như Hàn Quốc thì coi những người làm nghệ thuật dân tộc như báu vật quốc gia.

+ Nhưng thưa giáo sư, có ý kiến cho rằng những nước có kinh tế phát triển như Hàn Quốc thì mới có điều kiện chăm sóc, đối đãi tốt?
- Đâu phải tại nghèo hay giàu! Giàu mà coi thường thì họ vẫn coi thường. Ấn Độ không phải giàu có nhưng vẫn tôn trọng âm nhạc dân tộc. Điều này là do tư duy! Mặt khác, trong đời sống xã hội hiện nay có nhiều thay đổi làm bất lợi cho âm nhạc dân tộc. Xưa chúng ta ru con “sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” rót vào tiềm thức đứa con. Con thương cha mẹ nhưng cũng nhớ, cũng yêu văn hóa dân tộc. Nay mẹ không hát ru cho trẻ nhỏ nghe âm nhạc dân tộc thì khi lớn lên chúng sẽ không nhớ, không neo giữ âm nhạc dân tộc. Trẻ con nay ít được hát đồng dao như “tập tầm vông”. Trước đây, người dân hò hát cho quên mệt nhọc, họ tham gia và là chủ thể tạo nên âm nhạc dân tộc, còn nay thì thường để máy phát thanh thu sẵn, thụ động nghe.
Rồi những gia đình có điều kiện kinh tế ở thành phố thì cho con trẻ học trường Tây. Và còn do cách giáo dục trong nhà trường của chính chúng ta.

+ Với sự phát triển của xã hội như vậy thì sự thay đổi với cách nhìn nhận, đối xử, thưởng thức âm nhạc dân tộc cũng là điều tất yếu chăng?
- Nếu chỉ mất 1-2 yếu tố thì không sao, nhưng nay chúng ta đã mất hết, mất cả tư duy, tình yêu với âm nhạc dân tộc. Cần phải xem lại và lập lại tuần tự những điều đưa trẻ em đến gần Âm nhạc Dân tộc như lập lại tiếng hát ru, tổ chức những dàn hò khi làm việc, những buổi hát đối ca nam nữ trong lúc nghỉ ngơi.
Chính quyền nói văn hóa Việt Nam phải có tánh chất dân tộc khoa học đại chúng, nên sáng tác những điệu nhạc có tính đương đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc? Nói thì đúng nhưng dân chúng làm việc cực khổ mà chưa có đủ cơm ăn áo mặc, lấy đâu ra tiền mua đàn và trả học phí? Trong các Nhạc viện những sinh viên không có tiền mua đàn piano có thể luyện tập với những cây đàn chánh phủ mua cho, còn học đàn dân tộc sinh viên phải tự mua đàn lấy.

+ Tức là khi mình hô hào học nhạc dân tộc mình mà lại không đầu tư thì ai sẽ đầu tư cho mình đúng không thưa ông?
- Đúng rồi! Nhật Bổn là nước công nghiệp gấp 1000 lần Việt Nam, tiến bộ hơn rất nhiều nước phương Tây,  mà còn gìn giữ âm nhạc dân tộc, coi là quốc gia chi bảo. Nếu mình không có chính sách chính thức, không quan tâm thực sự âm nhạc dân tộc thì ai sẽ làm thay cho mình? Nếu thương yêu vốn cổ của cha ông thì phải tìm cách giữ lại, mô phỏng lại 1-2 nếp sống cũ. Có thể bà mẹ không còn ru như xưa thì nên có những chương trình hát ru để thay thế tiếng ru của bà mẹ, nhưng tâm sinh học cho thấy rằng trẻ nhỏ thường thích tiếng ru của người mẹ hơn những tiếng hát khác.
Chính quyền, báo chí cần tôn vinh những người làm âm nhạc dân tộc. Muốn làm lại âm nhạc dân tộc thì phải khuyến khích các giá trị dân tộc, khuyến khích hát ru, nam nữ hát đối đáp, mà việc đầu tiên chính quyền phải bỏ kinh phí đào tạo, người thầy cũng không được giấu nghề và học trò phải tầm sư học đạo. Học để hiểu, có hiểu thì mới thương, có thương thì mới tập luyện rồi mới biểu diễn thì âm nhạc dân tộc mới được hồi sinh, chứ nay thì tàn tạ lắm rồi.

+ Khi nào việc đào tạo người làm nghề âm nhạc dân tộc tạm ổn thì phải đào tạo thính giả âm nhạc dân tộc?
- Nhưng việc đào tạo âm nhạc dân tộc theo lối dạy phương Tây hiện nay không đem đến hiệu quả. Xưa cha ông chúng ta luyện tập cái tai và trí nhớ thì mới tạo nên nghệ sĩ. Nếu lo luyện tập con mắt và phản xạ thì chỉ tạo những người có kỹ thuật biểu diễn âm nhạc chứ chưa đi đến nghệ thuật.

+ Quay lại câu chuyện muôn thưở là “có thực mới vực được đạo”, thì với những người làm nghề âm nhạc dân tộc cũng có phải có tiền mới trang trải được cuộc sống đúng không thưa ông?
- Phải tạo điều kiện cho người nghệ nhân có cuộc sống vật chất tối thiểu khi hành nghề, đừng để những nghệ nhân mất thêm thời gian làm nghề tay trái kiếm sống, nhất là nghệ nhân nghèo thì chính quyền nên giúp đỡ. Giúp đỡ cụ thể thiết thực chứ không chỉ tặng danh hiệu NSND, nghệ nhân rồi thôi.

+ Nhắc lại chuyện cũ là nếu năm 1976, giáo sư không về nước, không gặp NSND ca trù Quách Thị Hồ ghi âm giọng hát của bà, rồi chuyển tới các cuộc thi âm nhạc dân tộc của nước ngoài và cho Unesco thì ca trù sẽ ra sao?
- Thì ca trù sẽ bị rơi vào quên lãng. Người Việt Nam thường không nhận ra vốn quí mình đang có, chỉ tới khi thế giới quan tâm tới một bộ môn nào đó thì mới…giật mình nhận ra giá trị của nó.

+ Giáo sư gặp nhiều nghệ nhân sống trong cảnh thanh bạch, nếu không muốn nói là nghèo khổ và gần đây câu chuyện về nghệ nhân Hà Thị Cầu mất trong nghèo túng, chắc khiến ông rất xót xa?
- Thương xót họ không đủ mà phải tranh đấu. Khi có dịp tôi luôn sẵn sàng giới thiệu chân giá trị khoa học và nghệ thuật của các bộ môn âm nhạc dân tộc. Chẳng hạn, khi gặp chính quyền tôi đề cập đến việc người làm ca trù không phải là phường bán phấn buôn hương mà là những người làm nghệ thuật dân tộc thực sự. Những chuyện tranh đấu này không phải chỉ làm trong một ngày một buổi mà phải nói, phải làm năm này tháng nọ, đến nay chánh quyền đã có cách nhìn tốt hơn về ca trù vậy cũng đáng mừng lắm rồi. Khi tôi ra Hà Nội năm 1976, kiếm tiếng trống chầu ca trù còn không có, đờn cũng đờn lén ở cả miền Bắc, nay ở nhiều nơi có thể nghe được ca trù.
Nhưng người Việt Nam phải biết thương nghệ thuật của cha ông, thương người làm nghệ thuật và hiểu rằng nghệ thuật đa dạng, chứ không phải chỉ nghệ thuật của mình là đúng. Người Việt Nam thường có tính đố kỵ, luôn cho mình là đúng, người khác thì chê bai chỉ trích.

+ Nhưng hiện nay chúng ta có một số loại hình nghệ thuật dân tộc được thế giới vinh danh với những danh hiệu này, danh hiệu khác thưa giáo sư?
- Chuyện đó là tốt nhưng đâu có phải đợi Unessco công nhận thì nó mới có giá trị mà đã có giá trị từ trước. Hơn nữa việc công nhận các danh hiệu của Unessco thì lại tùy thị hiếu trong ban giám khảo hàng năm. Chẳng hạn như gần đây là hát xoan, với quần áo màu sắc thì họ quý, còn đờn ca tài tử thì hồ sơ không hoành tráng nên chẳng ai để ý. Việc mình đưa ra thế giới để họ công nhận là tốt vì trước đây vốn không ai để ý thì nay được quan tâm. Nhưng vẫn là cái nhìn của người ngoài, chẳng lẽ chính bản thân dân tộc Việt Nam không biết quý trọng vốn liếng cha ông mình sao?

+ Giáo sư sinh trưởng trong gia đình có nhiều thế hệ hoạt động âm nhạc dân tộc và được làm quen với âm nhạc dân tộc từ năm 6 tuổi, nhưng khi trưởng thành thì ra Hà Nội học Y khoa, sau này lại quay về với âm nhạc dân tộc. Đó có phải là duyên tiền định?
- Không phải, vì tôi biết âm nhạc Việt Nam trước nhưng một thời trai trẻ có sai lầm, khi mình coi âm nhạc phương Tây thấy mới mẻ, thì phải học bắt chước. Tuy nhiên, mỗi âm nhạc có ngôn ngữ phù hợp với từng dân tộc ấy. Khi tôi bị đau, nằm ở nhà thương, tôi xoay 180 độ, về với âm nhạc dân tộc. Tôi chuộc tội với âm nhạc dân tộc bằng việc giới thiệu trên khắp thế giới và trong nước. Nhưng làm suốt đời chưa được thành công, 10 phần thì cũng mới chỉ được 5 – 6 phần thôi.

+ Ông đã về nước gần 10 năm nay và đã đóng góp được rất nhiều cho nền âm nhạc truyền thống cũng như văn hóa Việt Nam. Nhưng nay có một điều dù không nói ra mà ai cũng e ngại đó là tuổi tác của giáo sư ngày càng cao và nỗi lo về một khoảng trống của thế hệ kế cận. Đó có phải cũng là nỗi lo của ông hay không?
- Phải rồi! Người trong nước hiện nay có lẽ không nghĩ mình phải có bổn phận gìn giữ vốn quý của cha ông, mà vui gì thì làm nấy, chưa chú tâm và còn mặc cảm về nghệ thuật của tổ tiên.

+ Gần đây, một số người Việt Nam giàu có đã đầu tư cho văn hóa, các chương trình nghệ thuật. Đó có phải là một tín hiệu đáng mừng cho xu thế xã hội hóa ủng hộ nghệ thuật không?
- Nhưng tôi chưa thấy doanh nhân giúp nhiều cho âm nhạc dân tộc bao nhiêu trong khi mọi thứ giá trị của xã hội đang bị đảo lộn, thay đổi. Lập dàn nhạc dân tộc chỉ cần 10 triệu mà không ai cho, còn bóng đá thì chỉ cần đá vào gôn một quả là được thưởng tiền tỷ. Tôi cảm giác rằng âm nhạc, với họ không phải là nghệ thuật phụng sự mà là một món hàng người ta mua bán mà thôi.

+ Tôi cảm thấy sự ngậm ngùi, bất lực của người tâm huyết  trong giọng nói của giáo sư.
- Một con chim én không làm nên mùa xuân. Tâm huyết của 100 người trong xã hội không bằng một người có tâm trong chính quyền, vì quyền lực tiền bạc nằm trong tay sẽ thực hiện rất dễ dàng. Tôi cảm giác có những sự thật mà hiện nay nói ra không ích lợi gì, nhưng vẫn phải nói. Đó là cách dạy âm nhạc dân tộc hiện nay nhưng tôi đã nói nhiều, đâu có ai quan tâm. Vì bứt dây động rừng, không phải điều gì mình muốn, cứ tâm huyết cũng là được.

+ Vậy thì cái nếp nhà, giá trị văn hóa Việt Nam nay ra sao, thưa giáo sư?
- Nhiều nếp văn hóa dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử trong xã hội xuống cấp ghê gớm, nhất là trong gia đình xưa gọi dạ bảo vâng, đi thưa về trình thì nay không còn. Trong trường thì khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” không còn tôn ty trật tự. Ra ngoài đường thì không tôn trọng luật pháp. Một số bạn bè tôi trên thế giới tới Việt Nam đi qua đường ở Hà Nội, TPHCM không chết là may. Câu chuyện về giao thông cho ta thấy đó người Việt Nam thường tôn trọng sự tự do của mình mà không tôn trọng sự tự do của người khác.

+ Nếp nhà bị đảo lộn như vậy thì âm nhạc dân tộc cũng bị ảnh hưởng?
- Đó là chuyện tự nhiên, vì nó dính liền với nhau. Tư tưởng trọng đồng tiền đang ngự trị trong đời sống xã hội mà âm nhạc dân tộc hiện nay lại không đẻ ra tiền.

+ Vài năm trước, ngành văn hóa và ngành giáo dục đã bắt tay triển khai chương trình âm nhạc học đường, nhằm mang âm nhạc truyền thống vào trường học. Giáo sư có theo dõi không?
- Nhiều năm nay, tôi đã quan tâm đến chuyện nầy, nhưng cần phải xác định việc mang âm nhạc truyền thống vào học đường không phải là nhằm đào tạo học sinh biết đờn ca, ai cũng thành nghệ sĩ mà là sự hiểu biết, trân trọng vốn quí của dân tộc. Đấy là chưa kể học nhạc dân tộc thì học nhạc gì, ai dạy, dạy theo phương pháp nào?

+ Giáo sư thường ví mình là con chim én không làm nên mùa Xuân, chắc chắn cuối đời mình, đó vẫn là mối lo canh cánh lớn nhất của ông?
- Hồi nào tới giờ tôi vẫn vậy. Mình tìm hiểu cái hay, cái quý của cha ông để phổ biến. Nay thì tìm cách nói làm sao cho người ta nghe. Nói cho thế hệ trẻ nghe nhưng họ lại không có quyền mà người trong chính quyền lại chưa nghe. Tôi thường đi nói chuyện âm nhạc dân tộc hoặc tổ chức những buổi nói chuyện, biểu diễn âm nhạc Việt Nam tại nhà, nhưng có mấy người trong chính quyền tới nghe, tôi mới thấy có chừng mươi người quan tâm thực sự.
Tôi vẫn ưu tư, nhưng nay ưu tư nhiều hơn nữa, nhất là tuổi tôi đã cao, sắp ra đi mà chưa có gì đáng mừng.
+ Xin được chia sẻ với mối ưu tư lớn của giáo sư. Xin cảm ơn ông.

Thông tin

Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng ở Việt Nam; xuất thân trong một gia tộc mà cả bên nội lẫn bên ngoại đều có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm và hoạt động âm nhạc nổi tiếng.
Ông sinh ngày 24 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền. Ông nội ông là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp âm nhạc. Một trong số đó Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), sớm tham gia cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó.
Trưởng thành, ông Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa, tham gia hoạt động Tổng hội Sinh viên cùng với những sinh viên yêu nước và tham gia phong trào "Truyền bá quốc ngữ" trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, "Truyền bá vệ sinh" của các sinh viên trường Y. Ông sang Pháp du học từ năm 1949 về âm nhạc, rồi làm luận án tiến sĩ về âm nhạc, văn học ở những trường đại học nổi tiếng như: Đại học Sorbonne. Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris .
Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức.
Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, nay ông trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho Thành phố Hồ Chí Minh 420 kiện hiện vật, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: Một cái ta biết đi, biết học, biết lớn khôn hơn (*)

Bài: Trần Thiện Tùng
Ảnh: Tùng Cường, tư liệu của nhân vật
Với hàng chục đầu sách nghiên cứu văn học, văn hóa, nhất là mảng văn hóa Nhật Bản, phụ trách khâu tổ chức nội dung, chọn lọc tác phẩm Tủ sách tinh hoa văn học của công ty sách Phương Nam và sáng tác truyện ngắn, tản văn; nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu có nhiều điều kiện để nghiền ngẫm, chiêm nghiệm về văn hóa dân tộc trong mối tương quan với những nền văn hóa trong khu vực và trên thế giới. Trong cuộc trò chuyện với Văn hóa Phật giáo Việt Nam kỳ này, ông chia sẻ về việc nhận diện, nhận chân những khả thể của văn hóa Việt Nam trong mối tương quan ấy.
Ảnh: Nhân vật cung cấp

Nhìn lại để nhận chân những khả thể của mình, để tạo nên một cái ta mới
+ Thưa nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, trong nhiều tác phẩm của ông, bạn đọc luôn thấy nền văn hóa Nhật Bản có một vị trí quan trọng. Điều gì ở văn hóa Nhật Bản cuốn hút ông như vậy?
-Văn hóa Nhật Bản là một đặc thù. Khi nói đến vùng văn hóa da vàng thì Nhật Bản vừa đồng châu, đồng chủng và đồng văn với Việt Nam, nhưng lại có những nét riêng biệt nổi bật không thể lẫn vào đâu được. Lý do trước hết, đó là một đảo quốc chưa từng bị xâm lược, cho nên có được tự do, phát triển một cách hài hòa. Kế đó dân tộc Nhật Bản có tư tưởng học hỏi rất cao, khó ai bì được. Có thể kể thêm một yếu tố nữa là thiên nhiên Nhật Bản, tựa như một kho báu cực kỳ phong phú, dường như không có hiện tượng thiên nhiên nào trên thế giới mà lại không có ở Nhật Bản. Tất cả những điều trên tạo nên một Nhật Bản vừa độc đáo vừa đa sắc.
+ Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên luôn ảnh hưởng tới tính cách của dân tộc, cộng đồng người trên vùng lãnh thổ ấy. Nói tới thiên nhiên của Nhật Bản có ảnh hưởng quyết định tới tính cách, bản sắc Nhật Bản thì nhìn lại thiên nhiên của Việt Nam, ông thấy gì? Nhìn từ xa về có khiến mình nhìn rõ bản thân hơn không?
-Thiên nhiên Việt Nam cũng đa dạng nhưng không phong phú như Nhật Bản. Mặt khác, Việt Nam lại liên tục phải gánh chịu những cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc, khác xa với Nhật Bản.
Bất kỳ sự so sánh nào của mình với nền văn hóa khác trên thế giới thì cũng sẽ giúp nhìn lại mình để từ đó sẽ nhận chân những khả thể của mình, tức là những điều mình có thể làm, những hạn chế và cả những giấc mơ của mình. Triết gia lừng danh của Tây Ban Nha, ông Ortega cho rằng: “Ta là chính mình cộng với hoàn cảnh”. Những gì ta nói ở đây là thiên nhiên và văn hóa, đó chính là hoàn cảnh của ta. Vậy nếu muốn phát triển thì ta không cần nói đến những yếu tố chung quanh mà ta không có, chỉ với tương tác với những cái chung quanh thì ta mới có thể trở thành chính mình. Nếu mình nhìn người khác, rồi cũng đòi hỏi phải như họ, thì không được, mà phải dựa trên cơ sở cái mình có, với cái chung quanh (cái hoàn cảnh), vì thiên nhiên, đất nước, văn hóa mình như vậy, đâu cần phải giống Nhật Bản mà phải giống ta trước tiên, ta phải sử dụng chất liệu mà ta có trước đã. Nếu ta không có một văn hóa, thiên nhiên phong phú cao thì ta cũng nên tương tác với hoàn cảnh mà tạo nên một ta mới. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Tóm lại là sử dụng những chất liệu nằm trong tầm tay của mình, tận lực khai phá cánh đồng mà mình có thể canh tác.
+ Các cụ đã nói rằng: Đi một ngày đàng học một sàng khôn? Hình như trong lịch sử dân tộc, chúng ta cũng chưa có nhiều chuyến đi để học?
-Chữ đi này rất hay, rất có ý nghĩa! Thành thật mà nói văn hóa nông nghiệp của chúng ta từ xưa đưa đến một tập quán là ngại đi xa, có thể nói so với dân tộc khác thì dân tộc ta thiếu hẳn những nhà du hành, nhà thám hiểm tài năng, tâm huyết, thậm chí mạo hiểm. Có một thời ta chỉ quen “sống lặng trong làng nhỏ” như Hồ Dzếnh nói và do chịu nhiều cuộc xâm lược tàn bạo mà ta rất cảnh giác với cái gì đến từ xa cho dù nó mới mẻ tiến bộ. Giống như con chim sợ cành cong.

Tập quán là điều luôn phải được xem xét, phải thường xuyên tự nhận thức
+ Khi nghiên cứu về mối tương quan trong việc chịu ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa Trung Hoa của Việt Nam và Nhật Bản, giáo sư Vĩnh Sính ở trường đại học Alberta, Canada nhận định rằng: trong khi Việt Nam đối kháng xâm lược quân sự của Trung Quốc và chấp nhận khuôn mẫu văn hóa để không thua Trung Quốc, không khác Trung Quốc (việc mô phỏng khuôn mẫu văn hóa Trung Quốc không chỉ là chính sách văn hóa mà còn là biện pháp tự vệ tối cần thiết), thì Nhật Bản lại có hai khuynh hướng: kính nế hoặc phủ nhận văn hóa Trung Quốc. Trong lịch sử phát triển, Nhật Bản có hai thời kỳ chủ động cử hàng chục phái đoàn trí thức (mỗi phái đoàn có thể lên tới hàng trăm người) sang Trung Quốc thời Tùy – Đường và sang phương Tây, cuối thế kỷ 19 để học hỏi về nhiều mặt, trong khi đó thì Việt Nam lại dường như bị động? Ông nghĩ sao?
-Từ xưa, cái học của chúng ta dường như là ở cái thế bị học, ban đầu miễn cưỡng, sau ngộ nhận rằng cái bị học đó là cái mình thật sự cần và rồi cảm thấy không thiếu nó được, nên tìm cách thích ứng và cuối cùng yêu mến nó, thậm chí tôn thờ nó. Ví dụ như trường hợp Nho học, đã tôn thờ rồi thì làm sao còn nhận ra những tai hại của nó được. Điều đó có thể đưa đến tư tưởng Ngu Trung. Tư tưởng Ngu Trung được hiểu theo nghĩa rộng nhất là trung thành với cả những thứ không đáng trung thành. Cái đó tai hại vô cùng.
+ Có người nói điều này đã ám vào và nằm trong não trạng người Việt thì có quá không?
-Không phải! Vì tập quán là điều luôn phải được xem xét, phải thường xuyên tự nhận thức chứ không để cho nó giết chết mình. Ví dụ ta thường nói nghiện thuốc lá mà ít nói nghiện thứ khác – tuy nhiên có những cái nghiện nguy ngập hơn nghiện thuốc lá nhiều. Tôi cho rằng nghiện Nho giáo là một trường hợp như vậy. Vì Nho giáo là văn hóa chứ không phải là tôn giáo. Nghiện văn hóa độc tôn là nguy hiểm! Nghiện theo nghĩa rộng là một tập quán rất xấu về những thứ có khả năng gây mê cho cơ thể hoặc não trạng ta, mà cái gì khi đã thành tập quán thì không thể thấy nó xấu. Những người “nghiện” hay đánh tráo khái niệm theo kiểu: rất nhiều người không nghiện thuốc lá chết sớm, vậy thì có thể người nghiện thuốc lá lại khỏe mạnh, sống lâu. Những người nghiện một thứ văn hoá nào đó cũng vậy, họ thường cho rằng cái mà họ trung thành là tốt nhất, tốt hơn tất cả những loại văn hóa khác.
Tôi yêu thích văn hóa Nhật, nên có người cho rằng thậm chí tôi dường như chỉ biết có nó. Đây là lầm lẫn, vì trong công việc mỗi ngày của tôi như giảng dạy, nói chuyện, viết lách…thì tôi luôn luôn theo đuổi những đề tài khác nhau và hầu hết không liên quan gì tới Nhật Bản.

Đừng  tự xây tù ngục cho chính mình
+ Như ông đã nói là trước hết ta phải là chính ta, phải tìm về với bản thể, bản nguyên của ta trước, vậy thì hiện nay văn hóa Việt Nam cần gì, cần làm thế nào?
-Trước hết ta là chính ta, nhưng điều đó không có nghĩa ta tự xây tù ngục cho chính mình và hoàn toàn ngược lại là ta phải mở rộng ta, mở rộng chân trời của ta đến mức có thể được. Điều này xui ta liên tục học hỏi, biết cách tự chuyển hóa từ một cái ta lạc hậu đến một cái ta phóng mình về phía trước, một cái ta biết đi, biết học, biết lớn khôn hơn. Nói tóm lại là một cái ta trưởng thành, chứ không rơi vào thảm trạng mà Tản Đà từng nói: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”.
+ Nói tới sự học của người Việt thì chừng 100 năm trước, cụ Phan Chu Trinh từng nhận xét là: “Ngày xưa học Hán làm hủ Nho, ngày nay học Tây làm hủ Âu! Ôi! Có lẽ hình hài người mình đã bị cái học Tống Nho nhiễm sâu mà không chữa được sao”. Ông nghĩ sao trong tình hình hiện nay?
-Hủ Nho hay hủ Âu rồi còn hủ bao nhiêu thứ khác nữa, tất nhiên là thảm trạng rồi. Vấn đề là phải biết chuyển hóa bản thân mình thì không còn cái hủ nào có thể tồn tại. Khi không tự cầm tù, khi đã chuyển hóa thì còn không nghiện ngập gì. Chuyển là biến chuyển, hóa là hóa giải và hóa thành một thứ tốt hơn. Tất cả điều này phải dựa vào một giấc mơ đủ mạnh, đủ sinh lực, đủ tâm huyết.
+ Nhìn lại quá trình phát triển lịch sử dân tộc thì một số nhà nghiên cứu cho rằng, cha ông xưa như thời Lý Trần đã ngược dòng tìm về với bản thể văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đông Nam Á để giải Hoa  và sau này cũng có những công trình nghiên cứu gợi mở tìm về văn hóa Việt Nam với nền văn minh Đông Sơn, tiền Hán hóa. Đó có phải là hướng đi tìm về chính ta?
-Vấn đề đó đặt ra có mấy điểm sau: Thứ nhất là bản nguyên, thứ hai là hóa giải, thứ ba là khai tân.
Bản nguyên xác định cái gì là hoàn cảnh ta, ví dụ một trong những truyện cổ nổi bật về cái bản nguyên của người Việt là truyện Tiên Dung – Chử Đồng Tử. Ở đấy, ta thấy không có dấu vết của Nho giáo, những tư tưởng tiến bộ của Tiên Dung – Chử Đồng Tử dường như đồng hành với chúng ta ngày hôm nay như: du hành, tự do kết hôn, mở cửa làm ăn buôn bán với nước ngoài, du học…cho thấy không phải cái gì nghìn xưa của ta cũng là lạc hậu. Qua câu chuyện trên ta thấy những yếu tố tiến bộ, phi thường đến không ngờ.
Thứ hai là hóa giải. Hóa giải là một tư tưởng luôn luôn vượt thoát khỏi những chân trời chật hẹp mà ta đôi khi cho là thiêng liêng như gia đình, làng xã, thậm chí cũng có thể nói tới “giải lãnh thổ hóa” như Deleuze đã nói. Lãnh thổ có thể hiểu theo nghĩa rộng là từ gia đình cho đến những tổ chức, những trào lưu, những phương diện mà mình đã trói buộc mình vào.
Thứ ba là khai tân. Khai tân hay duy tân, khai hóa là luôn luôn làm mới lại mình. Đó là “Nhật nhật tân” (mỗi ngày mỗi mới). Nếu không có tư tưởng này thì mọi sự học tập đều vô nghĩa, vì học là để biết cái mới. Đáng buồn là ở ngay bậc đại học ở Việt Nam hiện nay, người ta còn tranh cãi là dạy cái đã biết, cái ổn định, cái dễ hay dạy cái mới, cái khó. Đã là cái mới là không ngại khó, ngại lạ.
Trong tư tưởng đó thay vì nói đến một cái nhìn đã quen thì ta nên nói đến một phối kiến, đó là một cái nhìn phối hợp từ nhiều góc nhìn vừa nhìn theo hoàn cảnh của mình, vừa tự đặt mình vào những cái nhìn khác để có thể phối hợp, nghĩa là phối cảnh hóa cái nhìn của mình. Chỉ như thế thì hoàn cảnh của ta mới không trói buộc ta, giấc mơ và chân trời của ta mới có thể mở rộng và thành tựu. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay chỉ có cái nhìn phối kiến mới thích hợp bởi vì ta luôn luôn là ta nhưng phải biết đồng hành với người khác.

Nhờ có Thiền, dân tộc ta mới có sức mạnh văn hóa
+ Tôi thấy một số nhận định rằng, trong truyền thống, xét về bản thể tư duy của người Việt và những tư tưởng từ nơi khác tới như: Phật, Nho, Lão…thì chỉ có Phật pháp mới hóa giải được điều đó với cái nhìn trí tuệ Bát Nhã. Ông nghĩ sao?
-Phật giáo đã đồng hành với dân tộc từ lâu. Một trong những tư tưởng phổ biến nhất, thâm sâu nhất của Phật giáo là giải thoát, tức là giải thoát ta khỏi mọi thứ, kể cả chính ta. Một cái ta chưa hiểu biết tức là chưa trưởng thành, chưa giác ngộ thì tất nhiên cần được giải. Đó là giải Ngã, bởi thế mới nói vô ngã.
+Quay trở lại lĩnh vực nghiên cứu Nhật Bản của ông. Nói tới bản sắc văn hóa Nhật Bản thì không thể tách rời Thiền tông. Nghiên cứu về Thiền Tông giúp ông thế nào khi nhìn về văn hóa Phật giáo Việt Nam?
-Thực ra mà nói Thiền là sáng tạo chung của Ấn Độ và Đông Á. Không có kinh Phật của Ấn Độ và tư tưởng Lão – Trang của Trung Hoa thì không có Thiền tông. Nhưng ngày nay khi nói tới Thiền thì thế giới chủ yếu dùng chữ Zen phiên âm theo tiếng Nhật, vì vậy có thể nói Nhật Bản đã thành công như thế nào trong văn hóa với tư tưởng Thiền Tông. Ở ta thì Thiền cũng là nét đẹp của văn hóa dân tộc, đặc biệt với dòng thiền Trúc Lâm của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Chính nhờ có Thiền mà dân tộc ta mới có sức mạnh văn hóa để đối đầu với cuộc xâm lăng trường kỳ của phương Bắc.
 
ảnh: Tùng Cường

Nguyễn Du tiêu biểu cho sức lực và bi kịch văn hóa dân tộc
+ Nói tới tư duy, tinh hoa văn hóa của một dân tộc thì phải nhắc tới gương mặt trí thức, đặc biệt là những đại trí thức. Ở Việt Nam thì dường như đại thi hào Nguyễn Du là người tạo được cảm xúc liên tài nơi ông?
-Nguyễn Du là trường hợp tiêu biểu cho thấy cái sinh lực cũng như bi kịch của văn hóa dân tộc.
Thứ nhất là sinh lực, với truyện Kiều và Văn chiêu hồn Nguyễn Du đã tạo nên một sinh lực văn hóa phi thường. Không biết điều gì sẽ xảy ra cho tiếng Việt nếu không có hai tác phẩm trên. Không chỉ là thiên tài về ngôn từ để làm cho tiếng Việt trở nên uyển chuyển và sang trọng mà Nguyễn Du còn có khả năng thể hiện mọi nỗi niềm từ hạnh phúc đến đớn đau, từ giấc mơ đến thực tại của chúng ta. Có câu nào diễn tả được số phận dân tộc cho bằng : “Hết nạn nọ đến nạn kia”, “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, “Hoa tàn mà lại thêm tươi. Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”…Trong mỗi chặng đường ta đi đều có một câu Kiều nào đó đi cùng. Mỗi lúc mình rơi vào một hoàn cảnh nào đó thì đều có thể nảy ra một câu Kiều.
Nhưng cuộc đời Nguyễn Du cũng là một bi kịch. Ông không thể thể hiện mình một cách trọn vẹn nhất dưới bất kỳ triều đại nào. Trong khi đó chúng ta biết rằng nhiều nhà trí thức khác trên thế giới đã có thể phát triển tột bực trong triều đại của họ, ví dụ như thời Phục Hưng ở phương Tây.
+ Nhân nói tới đại thi hào Nguyễn Du thì tôi lại nhớ tới 3 gương mặt đại trí thức cùng thời kỳ, là Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du. Hầu như họ là những “người bay không có đường chân trời”, bởi kể cả nhà bác học Lê Quý Đôn lên tột đỉnh quyền uy thì cũng chỉ là bồi tụng, mọi chiến lược, quyết sách phát triển của ông cũng đều bị chúa Trịnh và tham tụng ách lại.
-Hầu hết trí thức Việt Nam từ Nguyễn Trãi đến Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du đều không thể phát triển khả tính của mình, là bởi vì các triều đình không bao giờ thể hiện cái tư tưởng “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Tóm lại Nguyễn Du là tiêu biểu cho hoàn cảnh của trí thức Việt Nam. Sau này có Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, rồi rất nhiều trí thức Việt Nam khác rơi vào bi kịch.
+ Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du đều là những nhà Nho uyên thâm, nhưng cuối đời lại tìm về với Phật. Thậm chí Ngô Thì Nhậm còn được coi là tổ thứ 4 của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, còn Nguyễn Du từng than đọc kinh Kim Cương hàng nghìn lần không thấu, tới khi đứng trước chân đài phân kinh” của Thái tử Lương Chiêu Minh thì mới bừng tỉnh. Nếu hiểu theo lẽ thông thường thì Phật giáo là cái phao giúp họ bám giữ trong biển đời trần ai, giông bão, nhưng tôi nghĩ phải chăng chính Phật giáo mới giúp họ nhìn rõ thực tướng cuộc đời?
-Phật giáo là một tư tưởng của tự do. Đây là điều rất khó nói với triết học khác và với nhiều tôn giáo khác, mà theo tôi trí thức cũng là tri thức của tự do. Do đó, trí thức và Phật giáo thường gặp nhau, ví dụ Einstein và Phật giáo.
+ Vậy với một nhà nghiên cứu Đông Phương học, nhất là Thiền học qua văn chương như ông, tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng như thế nào?
-Trước tiên, tôi không phải là tín đồ của một tôn giáo nào hết, nhưng tư tưởng Phật giáo theo tôi trọn đời vì đơn giản Phật giáo không đặt vấn đề quy phục, phục tùng mà luôn luôn hướng tới tư tưởng giải thoát và cho rằng mỗi người chính là ánh lửa cho chính mình. Điều này phù hợp với cách tôi nghĩ và sống.
+Và trong cuộc sống hiện nay có quá nhiều “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”như nhiều người thường nói, thì Phật giáo có giúp ông nhìn những điều ấy như là những nhân quả trùng trùng duyên khởi?
-Tư tưởng Phật giáo đưa đến sự cảm biết về cuộc sống quanh ta và sự cảm biết đó giúp chúng ta vượt lên hoàn cảnh tồi tệ để sáng tạo một hoàn cảnh mới đầy ánh lửa của tri thức.
+ Cảm ơn ông.
(*) Nhân vật tâm đắc với bài phỏng vấn này, và khi biết tạp chí Văn hóa Phật giáo Việt Nam không có website, facebook thì đề xuất với tác giả là nên đăng trên FB hay blog của mình để chia sẻ với những người quan tâm, tri âm.